1.Để bài viết rõ ràng hơn,tránh nhầm lẫn đáng tiếc do câu chữ,các bạn chịu khó viết bằng tiếng Việt.Tôi đã upload phần mềm Vietkey 2000,các bạnVÀO ĐÂYtải về máy nhé!
Do các bài viết của chúng ta đã khá nhiều,các bạn vào cũng đã thấy rối,vì vậy việc theo dõi bài không thuận tiện.Vì vậy,tôi đã di chuyển khá nhiều topic ko có phản hồi,các topic đã lâu ko có phản hồi...vào thùng rác,các bạn muốn tìm lại bài cũ mình đang theo dõi có thể tìm ở đó!
Động Phong Nha, cõi tiên nơi trần thếThạch nhũ đã tạo nên những bức tượng kỳ bí
Đi trên huyền thoại
Chúng tôi đã vượt gần 100 km từ thị xã Đồng Hới (Quảng Bình) đến thăm quần thể núi đá vôi Kẻ Bàng và thăm động Phong Nha. Từ bến đò trên dòng sông Son, một trong những chi nhánh của con sông Nhật Lệ, chúng tôi xuôi canô trên con sông trong vắt và phẳng lặng như chiếc gương soi khổng lồ. Soi bóng xuống dòng sông phẳng lặng như mặt hồ thu ấy là những ngọn núi, cùng những dải mây trắng như bông bồng bềnh lướt qua. Một ý nghĩ chợt đến trong tôi: “Mọi người như đang đi về nơi có chuyện tình của Từ Thức huyền thoại xa xăm, chốn duyên tiên thuở xưa gặp gỡ người trần thế”.
Chiếc xuồng máy nhỏ bé như chiếc lá vàng lửng lờ trôi theo dòng nước. Nhìn sâu trong làn nước trong xanh ấy là từng đám rong đuôi ngựa “bơi” ngược dòng. Lác đác trên sông, một vài ngư dân cất vó bắt cá, vớt rong, một trong những thu nhập hàng ngày của người dân đang sống xung quanh động Phong Nha. Chúng tôi đi dọc theo bờ sông Son, là bến phà Nguyễn Văn Trỗi (cách cửa động Phong Nha 800m), một điểm rất ác liệt trong chiến tranh. Phong Nha còn mang trên mình tuyến đường Trường Sơn huyền thoại khoảng 3km đường.Trải qua bao cuộc chiến tranh, Ðộng Phong Nha vẫn còn đó, nguyên sơ như hàng triệu năm về trước.
Càng tiến gần hang động, phong cảnh sơn thủy hữu tình, thiên nhiên hùng vĩ với vô vàn hình ảnh kỳ thú hiện ra như khêu gợi trí tưởng tượng của con người. Người ta đã khéo đặt tên cho cảnh đẹp nơi đây là Ðộng Phong Nha (Ðộng Răng Gió). Tương truyền hơn một trăm năm về trước, ông vua trẻ Hàm Nghi đã ẩn mình ở đây cùng một số cận thần và ra lời kêu gọi Cần Vương.
Người dân địa phương gọi động Phong Nha là động “ướt”, động Tiên Sa là động “khô” vì Phong Nha có con sông ngầm này. Con sông ngầm của động Phong Nha kéo dài 44 km xuyên sang tận nước Lào láng giềng anh em. Thuỷ đặc sản có mặt trong lòng sông ngầm chính là loại cá chình nặng đến 10 kg. Người dân nơi đây thỉnh thoảng câu được đem bán ở chợ. Hàng ngày, mức nước sông dao động lên xuống chừng 5 cm, nhưng khi mùa mưa đến (tháng 10 và tháng 11), nước sông dâng cao từ 10 cm trở lên đỏ ngầu phù sa, có khi bịt kín cửa hang, thuyền nhỏ không thể đi vào hang được.
Chúng tôi đã đi vào hang “Hội trường” còn gọi là hang nước của động Phong Nha. Càng vào sâu ánh sáng ngoài cửa hang rọi vào nhạt dần rồi mất hẳn. Xuôi theo con sông Son trong ánh đèn huỳnh quang mờ ảo, chúng tôi không nhìn rõ mặt nhau, vì mặc dù đang là ban ngày nhưng chẳng khác gì ban đêm do hang động không một chút ánh sáng thiên nhiên, nhất là vào thời điểm xế chiều. Dọc hai bên con sông trong vắt phẳng lặng là rừng cột chôn mình dưới làn nước sâu 6 - 7m, thành dãy đền lung linh bí ẩn như một toà thuỷ cung nguy nga tráng lệ. Nhiều bức tượng được hình thành từ nhũ đá hiện ra như: tượng Phật Bà Quan Âm, tượng tứ linh “Long, Lân, Quy, Phụng”, tượng mẹ bồng con v.v… đã vẽ ra cảnh tiên giới…với nhiều huyền thoại ly kỳ, huyền bí giữa hư và thực.
Chuyện kể rằng, từ thuở hồng hoang, con người sống chung với cỏ cây và muông thú, thuở ấy các vị Tiên và người phàm trần chung sống với nhau. Trần gian luôn bị nhiều tai ương gây ra cho con người, vì thế theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế, các vị thần tiên thường bay xuống trần gian cứu giúp những con người khốn khổ. Phong Nha còn là nơi trú ngụ của các tiên nga, nơi lý tưởng để các nàng tiên ấy cùng nhau bơi lội, vui đùa. Người ta đã từng kể cho nhau nghe, có chàng trai trẻ xưa kia một mình chèo xuồng vào hang để mục kích tận mắt xem các nàng tiên cởi bỏ xiêm y tắm gội, hết ngày rồi bay trở về trời. Sau đó, chàng trai trẻ thất tình ngơ ngẩn ngày ngày chèo xuồng vào trong hang động với một mong ước mãnh liệt sẽ gặp lại tiên nga. Từ năm này sang năm khác, từ ngày này sang ngày khác, hy vọng rồi thất vọng, chẳng mấy chốc chàng trai trẻ ấy trở thành ông lão đầu tóc bạc phơ và từ giã cõi đời với niềm luyến tiếc không nguôi.
Người dân ở xung quanh động Phong Nha không thể nào biết được bức tượng Phật Bà Quan Âm được hình thành từ nhũ đá trong hang động có tự bao giờ. Họ chỉ truyền miệng kể cho nhau nghe sự linh nghiệm từ bức tượng của Phật Bà. Những ai đã từng đến đây và chèo xuồng trên con sông ngầm bí hiểm này, nếu nhận giọt nước Cam Lồ từ trong chiếc bình trên tay Người nhỏ xuống trên đầu thì sẽ gặp nhiều may mắn, nhưng sự may mắn đó sẽ được nhận khi chỉ nhận một giọt, hoặc phải có đủ 99 giọt thì mới hiển linh. Cô hướng dẫn viên du lịch vừa dứt lời, trong đoàn “thám hiểm” chúng tôi đã có người kêu lên khi nhận giọt nước may mắn từ huyền thoại này.
Năm 1992, đoàn thám hiểm hang động Hoàng gia Anh quốc gồm 15 thành viên đã thám hiểm đến đích động Phong Nha suốt 34 ngày đêm. Và họ đã đo được chiều dài của hang động là 7.729m. Tuy nhiên hiện nay du khách chỉ được phép tham quan 600m chiều dài của động Phong Nha. Vòm hang động cao nhất 50m và sâu nhất 83m.
Đi qua hang ướt, thuyền ngược dòng khoảng 800m thì đến chỗ cạn gọi là Hang nước cạn. Nước biến đi nhường chỗ cho đá, cát. Nhũ đá từ trên rủ xuống, măng đá từ dưới nhô lên tua tủa như cây rừng với những hình dáng kỳ lạ kích thích trí tưởng tượng của con người. Chúng tôi rời thuyền quá bộ trên cát đến với hang khô. Theo huyền thoại, bờ cát vàng hiếm hoi trong hang động này chính là nơi các nàng Tiên đã từng thường xuyên có mặt nơi đây và để lại những dấu chân Tiên trên cát.
Trở lại chuyện ông giáo sĩ Leotio Cadlrier - nhà thám hiểm người Pháp có công tìm ra động Phong Nha vào cuối thế kỷ 19, vị giáo sĩ này đã phát hiện di tích cổ của người Chiêm Thành tại hang khô. Ông đã tìm thấy bàn thờ và 7 chữ khắc trên bia đá của người Chămpa xưa. Vì vậy, hang khô còn có tên gọi là hang Bi Ký (chữ Bi có nghĩa là “bia”, chữ “ký” có nghĩa là chữ viết, tạm gọi là “chữ viết trên Bia”). Trong 7 chữ khắc của Bi Ký được viết theo lối cổ tự của người Chămpa nên người ta chỉ dịch được duy nhất một chữ, đó là chữ “Catimar”. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, chữ Catimar là tên của một vị La Hán – Tổ sư thứ 13 của Phật giáo Ấn Độ tồn tại từ thế kỷ thứ X. Bàn thờ của người Chămpa còn sót lại có hình những linh vật.
Thời kháng chiến chống Mỹ, người dân Quảng Bình đưa bộ đội đến động Phong Nha và động Phong Nha trở thành nơi trú quân của bộ đội. Hang khô chính là trạm y tế cứu chữa cho thương bệnh binh một thời gian dài.
Hang Cung Đình
Chúng tôi đến hang Cung Đình – một trong nhiều hang nhỏ đẹp nhất, kỳ bí nhất của động Phong Nha với nhiều hình ảnh sống động được hình thành từ thạch nhũ tạo nên một bức tranh rực rỡ của chốn Cung Đình, vì vậy người dân quảng Bình đã gọi hang này là hang Cung Đình. Vô số hình ảnh làm người ta có thể liên tưởng đến cung vua như: hai con rồng chầu hai bên, tượng voi phủ phục trước bệ rồng, hình tượng 4 thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh…tất cả đều do thạch nhũ nhỏ giọt kết thành. Nhìn bức rèm tiên được tạo thành từ nhũ đá, ngước mắt nhìn lên trên vòm hang, ta có thể hình dung rõ nét hình ảnh nàng Tiên đang xõa tóc gội đầu bên dãi ngân hà. Bỗng dưng tôi chợt nhớ đến lời bài hát:“chuyện xưa kể rằng, trên Tiên giới ấy ngày vui kết hoa đăng, vương quốc đang say, một nàng tiên lỡ làm rơi ly ngọc ngà. Đang say, nên Trời bảo đọa đày nàng (Tiên) xuống dưới trần gian làm người dương thế không biết bao lâu mới trở về Trời…”
Hang “mẹ bồng con” cũng kỳ bí không kém các hang động khác. Người dân ở đây tin sự linh hiển của bức tượng hài nhi nghịch ngợm chổng mông khom người về phía trước. Những người hiếm muộn về đường con cái một khi đã đến nơi này không thể cưỡng được lòng mình, thể nào cũng đặt tay lên người chú bé với một niềm mong ước sớm có được một quý tử cho mình. Phong Nha đã được đánh giá đạt 7 tiêu chí nhất về địa chất, địa mạo tại một cuộc hội thảo khoa học về di tích danh thắng Phong Nha - Xuân Sơn, được tổ chức tại Quảng Bình vào tháng 04.1997. Kết quả nghiên cứu khảo sát cho biết: Phong Nha có Hang nước dài nhất; Cửa hang cao và rộng nhất; Bãi cát và đá rộng đẹp nhất; Hồ ngầm đẹp nhất; Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; Dòng sông dài nhất Việt Nam (13.969m); Hang khô rộng và đẹp nhất. Đặc biệt, hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: Có các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, có những bờ cát rộng và đẹp nhất, có những thạch nhũ đẹp nhất. Hội nghị lần thứ 27 của Ủy ban Di sản Thế giới họp tại Paris tháng 7.2003 đã công nhận Phong Nha - Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới. Với những cái nhất như thế, Phong Nha đã khiến cho du khách một khi đã đến nơi đây không khỏi xuýt xoa thán phục bàn tay của tạo hóa và khi rời xa chắc chắn họ sẽ mãi mãi không bao giờ quên.
Chúng tôi quay trở lại thuyền rời Phong Nha khi hoàng hôn đã buông xuống từ lúc nào. Mặt trời đã lặn sâu ở phía chân núi đá vôi Kẻ Bàng tạo nên sắc màu kỳ ảo. Một lần nữa, chúng tôi được ngắm dòng sông đẹp như hồ thu ấy giữa bao la đất trời, một cảnh quan đẹp như trong chuyện cổ tích. Đúng như lời nhận xét của một người con Việt nhiều năm xa quê hương nay mới có dịp trở về “Sông núi Việt Nam kỳ vĩ đẹp tuoi"
Cách thị xã Lào Cai 28 km về phía Tây Bắc, qua huyện Bát Xát, tới Bản Vược rẽ trái là đến xã Mường Vi. Xã có thung lũng rộng, xung quanh là những dãy núi đá vôi trùng điệp, tạo thành một quần thể hang động rộng lớn, gọi là quần thể hang động Mường Vi. Đây là một trong những di tích độc đáo và hấp dẫn của tỉnh Lào Cai. Trong vô số những hang động của Mường Vi có các động Ná Rin, Cám Rang, Cám Rúm và Cám Tẳm đều khá đẹp và độc đáo.
Động Ná Rin là động lớn, có rất nhiều nhũ thạch, màu ánh bạc, trong suốt đan xen nhau tạo thành những bức bình phong đẹp. Đầu nhũ thạch là những giọt nước tinh khiết. Giữa hang có dòng suối nhỏ. Trên vách hang là những nhũ đá tựa như những chiếc đèn chùm to nhỏ.
Động Cám Rang nằm lưng chừng một quả núi ở vị trí cao, ít hơi nước, màu nhũ hơi nâu sẫm, rắn chắc. Phía trong hang là những tảng đá có hình thù giống quả bầu dài và mâm ngũ quả màu vàng trông rất thích mắt. Phía trong động có cổng trời. Trên cổng là dải nhũ đá trông như vương miện với những dải rua cầu kỳ.
Hấp dẫn không kém là các động Cám Rúm và Cám Tẳm. Hai động này cũng có nhiều tảng đá với những hình thù độc đáo, được phủ bởi nhũ thạch muôn màu. Riêng hang Cám Tẳm chứa đựng nhiều yếu tố dân gian phong phú và hấp dẫn, đồng thời phản ánh đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng dân tộc Giáy.
Chỉ hơn 1 giờ trên ô tô khởi hành từ Hà Nội, bạn đã tới Khu du lịch suối khoáng Tản Đà, tại xã Tản Lĩnh, Ba Vì, Hà Tây - nơi được nhiều du khách tâm đắc chọn làm chốn ẩn mình, thoát khỏi cuộc sống chen chúc bụi bặm đầy tiếng còi xe ở thành phố. Diện tích vỏn vẹn chưa đầy 25 ha, nhưng khu du lịch có đầy đủ cảnh sơn thủy hữu tình. Dãy núi Ba Vì xanh lam phủ mây trắng, thảm cỏ xanh mướt trải dài từ chân núi, hồ nước trong veo bồng bềnh mấy chú vịt trời, rặng chuối phất phơ như mọc hoang ven hồ, vườn cây bốn mùa thoang thoảng hương hoa.
Nhằm tạo cảm giác mênh mông, yên tĩnh, các kiến trúc sư đã tận dụng ưu thế của vườn cây cổ thụ sẵn có ngăn tách thành các khu khác nhau song không bị cảm giác cứng nhắc. Ở khu nhà cổ, khách khó có thể tưởng tượng bên kia lại có bể bơi lớn sang trọng. Ra khỏi nhà hàng, dạo trên con đường ven hồ chỉ sau vài bước chân đã bất ngờ gặp một làng quê cổ thanh bình với sân gạch thẻ lát nghiêng. Để du khách thực sự có những khoảnh khắc "nhẹ tênh" sau những ngày làm việc vất vả, nội thất ở những căn nhà nghỉ chủ yếu làm từ tre gỗ, những bát lá khoai lang, bình hoa cỏ voi, thùng rác gốm sành đơn giản, hạn chế tối đa sự cầu kỳ nhưng lại tạo được cảm giác rất lạ, đẹp đến ngỡ ngàng.
Những người xa quê lâu năm chợt thấy tâm hồn rung lên khi trên đường đi dạo bất chợt gặp cô gái làm vườn ngẩng đầu chào "bác về chơi". Có những du khách trung tuổi ngại tham gia các trò sôi động của lớp trẻ, hì hụi nhờ nhân viên phục vụ dọn ghế ra hiên nhà, làm ấm chè nóng kể với nhau chuyện ngày xưa đi học đội mũ rơm tưởng đã rơi vào quên lãng.
Muốn hoà mình vào thiên nhiên, du khách có thể làm cuộc thám hiểm nhỏ bằng xe đạp quanh hồ rộng 18 ha, len vào rừng keo tai tượng để hét vang những gì mình ấp ủ hoặc làm chiếc cần câu để tận hưởng cảm giác tuyệt vời khi bắt được cá, tôm và nhóm lửa ven hồ để thưởng thức ngay thành quả lao động . Hiếm nơi nào có chỗ cho khách chán thịt cá lội ra vườn hái đỗ, nhổ su hào yêu cầu nhà hàng phục vụ món rau luộc như nơi đây.
Mê thể thao, bạn có thể làm vài séc tennis, cầu lông hay say sưa bên bàn bida để sau khi trán mướt mồ hôi thả mình trong bể bơi nước khoáng ấm và được thư giãn ở phòng xông hơi, massage. Các bồn ngâm khoáng cá nhân ven suối ẩn trong vườn chè xanh, các bồn ngâm khoáng bùn bằng gỗ sồi với những bài thuốc, những hương liệu thảo dược thiên nhiên lại đặc biệt hấp dẫn đối với những người muốn đến đây tìm lại cho mình một nguồn năng lượng tươi mới sau những ngày làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Khi màn đêm xuống còn gì thú bằng nhóm lửa bên nhà sàn thưởng thức các món nướng, món lẩu nhẩn nha với ly rượu Tản Đà rồi say sưa thể hiện tài nghệ ca hát với bạn bè qua dàn karaoke lớn.
Chưa hoàn thiện xong giai đoạn I, khu du lịch mới mở cửa đón khách được vài tháng song cứ đến cuối tuần khu nhà cổ lại không còn chỗ trống.
Du thuyền trên sông Hàn Một chuyến xuôi cửa biển của tàu du lịch trên sông Hàn
Ðến Ðà Nẵng, chỉ theo tour du lịch "lên rừng xuống biển" bạn sẽ cảm thấy thiếu nếu chưa thử du ngoạn trên sông Hàn theo tour "Danang By Night" trên tàu "Du lịch sông Hàn". Sông Hàn, dòng sông gắn liền với tên thành Tourane xưa và Ðà nẵng nay đã chứng kiến biết bao biến cố lịch sử của thế kỷ XX mà dấu ấn của những biến cố đó nay vẫn còn trên vịnh Ðà Nẵng ngay cửa sông Hàn. Du lịch cùng với con tàu Hàn Giang xuôi hạ lưu sông Hàn ra biển sẽ giúp bạn khám phá những địa danh lịch sử nơi cửa ngõ biển Ðông, khám phá về sông Hàn, về chiếc cầu quay duy nhất của Việt Nam được hoàn thành vào tháng 3/2000…
Xuất phát từ bến sông Hàn trước bảo tàng Chàm (ngay trung tâm thành phố Đà Nẵng, bờ kè được chăm chút kỹ lưỡng với vườn hoa cây cảnh trải dài, gió sông lồng lộng, ánh đèn nhiều màu từ những chiếc đèn lấp lánh trên tàu hắt xuống như quyến rũ, mời gọi), tàu sẽ chạy ngang qua trung tâm thành phố để khách được ngắm phố xá hai bên bờ Bạch Ðằng Ðông - Tây. Ra đến cửa biển, nơi tiếp giáp với Vũng Thùng xuất hiện một đập đá dài, đó là đập chắn sóng Bắc - Nam hay còn gọi là bờ Ðá Giăng. Công trình này được toàn quyền Ðông Dương cho xây dựng từ những năm đầu của thế kỷ XX, đó là đập chắn sóng đầu tiên trên biển của cảng Ðà nẵng xưa, bởi người Pháp cho rằng nếu không có đập chắn sóng này, cát bồi sẽ lấn dần và lấp cửa Hàn.
Ði hết con đập, tàu sẽ tiến ra biển. Trên đường đi, bạn sẽ nhìn thấy cảng Hải quân - được xây dựng từ thời Pháp, nay Hải quân Việt Nam đang từng bước hoàn thiện để đưa đón những chiến hạm bảo vệ vùng duyên hải miền Trung. Những ngọn gió mát từ biển, từ Sơn Trà lồng lộng là chiếc quạt "tự nhiên" giúp bạn quên đi mệt nhọc. Giữa màu xanh của núi là những bãi cát trắng phau như tiên giáng trần, là bãi tắm Tiên Sa. Bạn có thể tha hồ vùng vẫy trên sóng nước trong veo với những bãi cát vàng óng ả. Cạnh sườn núi bãi Tiên Sa, bạn sẽ gặp nghĩa địa Y Pha Nho. Ðây là nghĩa địa chung của nhiều binh lính Pháp và Tây Ban Nha chết trận thời kỳ 1858-1859, gồm 32 ngôi mộ lớn nhỏ có bia và không có bia.
Tạm biệt vùng đất lịch sử này, tàu sẽ nhổ neo tiến thẳng ra vùng Vịnh, một vùng nước sâu và rộng được che chắn bởi đèo Hải Vân ở phía Bắc và núi Sơn Trà ở phía Ðông Nam tạo thành một vòng cung kín gió thật lý tưởng cho các con tàu ra Bắc vào Nam neo đậu khi giông bão. Con tàu tiếp tục cuộc hành trình về hướng Tây và sau khoảng 40-60 phút sẽ đến Hòn Hành, một ngọn núi gần như nhô hẳn ra biển, hai bên là hai bãi cát dài và rộng, dân địa phương thường gọi là bãi Súng, bãi Sang. Ở đây, bạn có thể lắng nghe câu ca dao tình tứ:
Tại bãi Súng, xưa có làng Cùi, nay đã được xóa bỏ và thành lập khu hành chính mới lấy tên là làng Vân, thuộc Hòa Hiệp, Liên Chiểu. Ðến đây, bạn có thể vào thăm làng, đó là một vùng đất trù phú với những thửa ruộng xanh rờn, rừng phi lao trải dài quanh chân đèo Hải Vân. Tàu sẽ nghỉ đêm tại đây để bạn được thưởng thức thú dạo chân trần trên biển, ngắm những ngư dân kéo lưới, câu mực. Bạn cũng có thể thuê thuyền của ngư dân để tự mình câu mực và thưởng thức món mực luộc tươi rói vừa câu hoặc có thể nghỉ ngơi trên tàu… Vừa thưởng thức ẩm thực vừa ngắm cảnh sông nước, thành phố… bạn sẽ hiểu thêm về quê hương Đà Nẵng và chắc chắn, đó sẽ là một cuộc ngoạn du tuyệt vời của bạn.
Tham gia ngày: Jul 2004 Vị trí: CLB_BacBaPhi's Bài gởi: 1,003
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên Ngô Sĩ Liên (không rõ năm sinh, năm mất) người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây), tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ khá sớm, đỗ tiến sĩ đời Lê Thái Tông. Trên cương vị và trọng trách của một sử thần, với ngòi bút tài hoa, lòng yêu nước và ý thức vươn tới sự hoàn thiện, ông đã góp phần công sức chủ yếu trong việc soạn thảo Đại Việt sử ký toàn thư bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Bộ sử đồ sộ này được khắc in vào cuối thế kỷ 17 và còn lại nguyên vẹn tới ngày nay, là cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên vào kho tàng văn hóa dân tộc Ngô Sĩ Liên người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Là sử thần đời Lê, ông đã góp phần công sức chủ yếu trong việc soạn thảo Đại Việt sử ký toàn thư bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam được khắc in vào cuối thế kỷ 17 và còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay. Theo các tài liệu mới được công bố gần đây, Ngô Sĩ Liên tham gia khởi nghĩa Lam Sơn khá sớm, cùng với Nguyễn Nhữ Soạn (em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi) giữ chức vụ thư ký trong nghĩa quân, nhiều lần được Lê Lợi cử đi giao thiệp với quân Minh trong những thời kỳ đôi bên tạm hòa hoãn để củng cố lực lượng. Rất đáng tiếc, về năm sinh và năm mất của ông, hiện nay vẫn chưa được biết thật đích xác, nhưng theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì ông thọ tới 98 tuổi, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời Lê Thái Tông (1434 - 1442). Đây là khoa thi đầu tiên được triều đình tổ chức lễ xướng danh, yết bảng; các vị tiến sĩ tân khoa được vua ban mũ áo, vào cung dự yến, được ban ngựa quí để đi dạo chơi thăm phố xá kinh kỳ, được "ân tứ vinh quy" với lễ đón rước rất trọng thể. Và sau này, theo lệnh vua Lê Thánh Tông, họ tên lại được khắc vào bia đá, đặt ở Văn Miếu, để "làm gương sáng cho muôn đời". Sau khi thi đỗ, Ngô Sĩ Liên đã từng giữ các chức Đô ngự sử dưới triều Lê Nhân Tông, Lễ bộ Hữu thứ lang, Triều liệt đại phu kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp, kiêm Sử quan tu soạn dưới triều Lê Thánh Tông. Đóng góp to lớn mà Ngô Sĩ Liên còn để lại cho đời sau chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư mà ông đã biên soạn theo lệnh nhà vua và đã hoàn thành vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 đời Lê Thánh Tông, gồm 15 quyển, chia thành hai phần: Phần một (ngoại kỷ), gồm 5 quyển, chép từ thời Hồng Bàng đến hết thời Bắc thuộc (năm 938). Phần hai (bản kỷ) gồm 10 quyển, chép từ thời Ngô Quyền dựng nước (năm 938) đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428). Bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư cũng do Ngô Sĩ Liên viết, có đoạn nêu rõ: "Trộm nghĩ: may gặp buổi thịnh trị, tự thẹn không chút báo đền, nên không tự nghĩ sức học kém cỏi, lấy hai bộ sách của các bậc tiên hiền làm trước đây, sửa sang lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, gồm một số quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư. Trong bộ sách này, về sự việc, có việc nào trước kia quên sót thì bổ sung vào; về thể lệ có lệ nào chưa thật đúng thì chỉnh lý lại; về văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi thay đi; thảng hoặc có việc nào hay việc nào dở có thể làm gương khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê kệch ở dưới... Tuy những lời khen chê ấy chưa có thể làm công luận cho muôn đời về sau nhưng may ra cũng có thể giúp ích phần nào cho việc tra cứu tìm hiểu...". Qua những đoạn trích trên đây cũng có thể thấy được đôi nét tổng quát về quan niệm, bút pháp sử học... của Ngô Sĩ Liên. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư hiện đang lưu hành, tuy do Ngô Sĩ Liên khởi thảo (hoàn thành vào năm 1479), nhưng đã được các sử thần các đời khác như: Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ, Lê Hy... hiệu chỉnh bổ sung thêm. Phần đóng góp chủ yếu của tiến sĩ họ Ngô vào bộ quốc sử lớn này là: đặt tên cho bộ sách là Đại Việt sử ký toàn thư, được triều đình và các đời sau chính thức công nhận. Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã dựa vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên. Ông viết thêm 1 quyển thuộc Ngoại kỷ, trình bày lại tiến trình lịch sử của Việt Nam từ họ Hồng Bàng cho tới khi quân xâm lược Minh bị đánh đuổi về nước; viết Tam triều bản kỷ, sau này được đa vào phần Bản kỷ toàn th và Bản kỷ thực lục; viết bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư, phần Phàm lệ Đại Việt sử ký toàn thư; viết những lời bình luận (hiện còn thấy 166 đoạn) có ghi rõ "sử thần Ngô Sĩ Liên viết"... Khác với phần lớn các lời bình của Lê Văn Hưu hoặc Phan Phu Tiên, những đoạn bình luận lịch sử của Ngô Sĩ Liên thường dài hơn, do đó cũng thường cặn kẽ hơn, sinh động hơn; nhiều đoạn có thể coi như lời tổng kết cả một giai đoạn lịch sử. Những dòng ca tụng các bậc trung thần nghĩa sĩ vì nước quên thân; những lời chỉ trích các hành động tham bạo của kẻ gian tà, những lời tố cáo vạch trần những âm mưu quỷ kế của kẻ thù được viết với ngọn bút tài hoa của Ngô Sĩ Liên vốn là người học sâu biết rộng, có ý thức vươn tới sự hoàn thiện như Sử Mã (Sử ký của Tư Mã Thiên), Lâm kinh (Kinh Xuân Thu do Khổng Tử san định), thực sự đã làm cho biết bao thế hệ người đọc đời sau cảm phục sâu sắc. __________________
Cho Dù Ván Đã Đóng Thuyền Tháo Ra Đóng Lại Thành Thuyền Đẹp Hơn